
#ĐÌNHNGỰTRIỀUDIQUY #NƠITHIẾTTRIỀUĐẶCBIỆTNHƯTHẾNÀO #COMMUNALHOUSE #THÁIVITV Đình Ngự Triều Di Quy được xây vào năm 1907, dưới thời nhà Nguyễn, tại vị trí được cho là nền điện thiết triều cũ của kinh thành Cổ Loa xưa. Vì vậy mà ngôi đình mang tên Ngự Triều Di Quy Đình Ngự Triều Di Quy nằm gần giữa khu […]
#ĐÌNHNGỰTRIỀUDIQUY #NƠITHIẾTTRIỀUĐẶCBIỆTNHƯTHẾNÀO #COMMUNALHOUSE #THÁIVITV
Đình Ngự Triều Di Quy được xây vào năm 1907, dưới thời nhà Nguyễn, tại vị trí được cho là nền điện thiết triều cũ của kinh thành Cổ Loa xưa. Vì vậy mà ngôi đình mang tên Ngự Triều Di Quy
Đình Ngự Triều Di Quy nằm gần giữa khu thành Nội, cách đền thờ An Dương Vương khoảng 300m về phía đông, phía trước là một khoảng sân rộng, bên tây là am Mỵ Châu, bên đông là xóm Chợ, phía sau là chùa Bảo Sơn.
Đình có Nghi môn được xây trát kiểu hai tầng có mái đắp giả ngói ống, nối vào với ba cửa: một chính hai phụ tiếp liền với tường tạo thành phần ngăn ở phía trước, bên trái có đường dẫn thẳng vào trước am Mỵ Châu. Tất cả đều xây trát đơn giản.
Từ Nghi môn qua một sân rộng lát gạch Bát Tràng là tới Đại Đình, cạnh đó về bên trái là am Mỵ Châu, bên phải là nhà Tả vu mới được phục dựng năm 2004 – 2005.
Ngôi đình này được gọi theo tên địa danh Cổ Loa nhưng có tên là “Ngự triều di quy” vì theo t¬ương truyền Đình được dựng trên nền cung điện thiết triều của vua An Dương Vư¬ơng. Đây là một kiến trúc khá lớn, có bố cục mặt bằng hình chữ “Đinh”, (hay còn gọi là kiểu chuôi vồ) gồm 5 gian 2 trái và hậu cung.
Đại đình, dài 30m, rộng gần 14m, được làm bằng gỗ lim mái lợp ngói “mũi hài” cùng với những góc đao cong trông thật bề thế. Kết cấu bộ vì nóc làm theo kiểu “giá chiêng, chồng rư¬ờng” với 6 hàng chân cột. Các cột cái khá lớn: cao 5,5m, đường kính 0,5m. Các cột quân cao 4m, đường kính 0,38m. Sáu bộ vì chia không gian nội thất ra làm 5 gian 2 chái khá rộng (1 gian rộng 4,1m, 2 chái rộng 3,8m). Để có thể làm được 2 chái lớn rộng nh¬ư vậy, ng¬ười ra đã làm 2 vì lửng tức là bộ vì trốn cột theo thể thức cổ truyền. Nói chung, các bộ vì của gian bên cũng làm theo kiểu giá chiêng nhưng các chi tiết đơn giản hơn gian giữa, kể cả ở các cốn và bộ vì nách. Mái đình, được đua rộng ra phía trước là nhờ cách sử dụng kẻ bẩy- một thân gỗ nguyên dài và mập gác mộng ở hai đầu cột quân và cột hiên v-ươn ra đỡ hoành và tầu mái. D¬ưới quá giang của gian giữa có khắc dòng chữ “Thành Thái tam niên” (1903), đó là năm có cuộc tu bổ lớn. Các cuộc tu bổ như¬ vậy làm cho di tích có thể vững chắc, tồn tại lâu hơn với thời gian, nhưng có lẽ những chi tiết, cấu kiện trang trí của ngôi đình, do hư¬ hỏng cũng không thể giữ lại được. Đó là lý do khiến ta không còn thấy có nhiều mảng, nhiều chi tiết trang trí tại phần gỗ của kiến trúc này. Trong lần tu tạo năm 2001 cơ quan quản lý di tích đã cho phục hồi bộ sàn và cửa bức bàn ở xung quanh bằng gỗ lim như hiện nay.
Các chạm khắc trên kết cấu gỗ của đình không nhiều mà cũng không dày đặc, nhưng khá đẹp và tập trung ở các đầu dư, con rường, kẻ và ván nong.
Mười hai đầu dư ở các cột cái đều được chạm đầu rồng, còn phần thân rồng bị chìm khuất đi bởi những đao mác dài bay ra từ gáy, mang và hàm. Phần đầu rồng chiếm một tỷ lệ lớn có đôi mắt tròn to, nổi khối, miệng há mở trông rõ từng chiếc răng, mang phồng, tai lớn, từ mắt và mang bay ra những vân đao trông rất sống động.
Ở các con rường, trên kẻ hiên và ván nong của bộ vì có các đồ án “Phượng hàm thư”, “Lân hí cầu”, “Rồng – lân – phượng” và hoa lá kết hợp được thể hiện khá tinh tế và thanh thoát, nhẹ nhàng khiến ta nhìn vào không còn cảm thấy sự nặng nề của các cấu kiện gỗ to mập chồng chất lên nhau.
Một tác phẩm chạm khắc khá nổi bật trong ngôi đình là chiếc cửa võng sơn son thiếp vàng với các mảng chạm “Tứ linh” (Long – ly – quy – phượng), và “Tứ quý” (thông – trúc – cúc – mai), và các đề tài phổ biến trong điêu khắc gỗ cổ truyền. Chiếc cửa võng này có niên đại tạo tác cùng với năm đại tu “Thành Thái Quý Mão Xuân” (1903), được ghi ở một ô hộc nhỏ phía trên cửa võng. Đây là một bộ phận kiến trúc, một tác phẩm nghệ thuật được coi là rất đẹp của nội thất ngôi đình.
Hậu cung có kích thước 9,5m x 8,5m. Có kết cấu vì nóc theo kiểu chồng rường đơn giản. Các cột cái có đường kính 0,5m, cột con 0,45m trên các con rường được chạm bong kênh hình rồng. Mặc dù vẫn sử dụng thân gỗ chịu đựng nhưng để tăng cờng tính thâm niêm của hậu cung ngời ta đã xây tường gạch bao kín ba mặt phía trước để hai lối đi thông với Đại Đình.
Chính giữa hậu cung có một khám thờ khá lớn. Trên khám có ngai thờ An Dương Vương chùm áo Hoàng bào, phía dưới là bài vị thờ tướng Cao Lỗ, người có công chế ra “Nỏ thần”. Ở phía trên có 4 chữ đề “Ngự triều di quy”, với ý nghĩa đây là nơi đã từng thiết triều của An Dương Vương vì vậy đình còn được gọi là đình “Ngự triều di quy”. Theo các cụ ở địa phương cho biết ngôi đình này được mua tại khu vực Việt Trì và chở về theo dòng sông Hồng, dựng lại vào năm 1892.
Việc thờ phụng Thục Phán An Dương Vương ở đình như một vị thành hoàng làng và phối thờ tướng Cao Lỗ cho thấy nhân dân hết lòng quý trọng và ngưỡng mộ vị vua hiền, tướng giỏi thời Âu Lạc.
source